Nghị quyết “thuận thiên” và ứng phó của Bến Tre trong mùa hạn mặn 2024
Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu thực sự là quyết sách lớn, mang tầm thời đại của Đảng và Nhà nước,
Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu thực sự là quyết sách lớn, mang tầm thời đại của Đảng và Nhà nước, quan điểm xuyên suốt tại quy hoạch vùng ĐBSCL là phát triển “thuận thiên" và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết tại tỉnh Bến Tre đã đạt một số kết quả nhất định, trong đó, công tác phòng chống hạn mặn mùa khô năm 2024 đã được đánh giá cao. Để đánh giá và trao đổi về các kết quả đạt được chúng tôi có bài phỏng vấn Ông Đoàn Văn Đảnh, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về vấn đề này.
* Thưa Ông, hiện nay hạn mặn đang diễn ra tại tỉnh Bến Tre như thế nào?
Xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã và còn diễn biến phức tạp, tăng cao và đạt đỉnh trên các sông chính trong tháng 03/2024. Độ mặn 4‰ xâm nhập cách các cửa sông chính khoảng 50-69km; độ mặn 1‰ xâm nhập cách các cửa sông chính khoảng 64-79km. Mặc dù tỉnh đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để chủ động ứng phó, tuy nhiên hệ thống công trình thủy lợi, đê điều trên địa bàn tỉnh chưa khép kín dẫn đến ảnh hưởng đến nguồn lấy nước của một số nhà máy nước. Theo đánh giá sơ bộ ban đầu, khoảng 25.000 hộ dân trên địa bàn tỉnh có nguy cơ thiếu nước, khoảng 4.150 ha đất sản xuất nông nghiệp bị ảnh hưởng nếu tình trạng hạn mặn kéo dài.

Cấp nước ngọt cho người dân xã An Khánh, huyện Châu Thành
Trên địa bàn tỉnh có 67 nhà máy cấp nước sinh hoạt đang hoạt động, với tổng công suất hơn 10.000 m³/giờ, cung cấp nước sinh hoạt cho hơn 300.000 hộ dân (đạt tỷ lệ 76,8%). Tại cao điểm xâm nhập mặn, có 21 nhà máy nước có độ mặn nước cấp ra dưới 0,5‰ (độ mặn cho phép đối với nước sinh hoạt theo quy chuẩn địa phương), đạt tỷ lệ 41,2%. Đây được xem là điểm nổi bật của Bến Tre trong công tác chủ động ứng phó xâm nhập mặn mùa khô năm 2023-2024.
* Theo ông, từ khi Nghị quyết 120 được triển khai, mức độ thiệt hại từ hạn mặn và sức thích ứng của tỉnh có sự chuyển biến như thế nào thưa ông?
Trước các diễn biến và thách thức của biến đổi khí hậu đến khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ngày 17/11/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu đã mở ra nhiều cơ hội cho Đồng bằng, ưu tiên kêu gọi đầu tư cho phát triển. Thay đổi thứ tự ưu tiên phát triển sản xuất nông nghiệp từ ưu tiên cây lúa sang thứ tự từ thủy sản, cây trái và lúa làm cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng thích nghi, giảm phụ thuộc vào nguồn nước ngọt, phù hợp với các thay đổi về nguồn nước. Biến thách thức về nguồn nước, xâm nhập mặn thành cơ hội làm tăng khả năng phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Sau khi Nghị quyết 120/NQ-CP được triển khai, Bến Tre đã nghiên cứu, triển khai ứng dụng nhiều mô hình canh tác nông nghiệp thích ứng BĐKH, xâm nhập mặn: phát triển mạnh mô hình canh tác tôm – lúa thích ứng với BĐKH; mô hình nuôi tôm sinh thái dưới tán rừng kết hợp trồng phát triển rừng; mô hình phát triển cây bưởi da xanh thích ứng BĐKH; mô hình phục hồi vườn chôm chôm bị ảnh hưởng hạn mặn; phát triển gốc ghép cây có múi chịu mặn trên các vùng đất chịu ảnh hưởng bởi BĐKH; mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực thích ứng BĐKH gắn với tiêu thụ sản phẩm... Phát triển tích hợp đa giá trị từ vườn dừa Bến Tre đã góp phần đưa ngành nông nghiệp Bến Tre thích ứng và từng bước nâng cao sức khỏe đề kháng với hạn mặn.

Mô hình canh tác tôm – lúa thích ứng với BĐKH tại huyện Thạnh Phú
Bên cạnh đó, Tỉnh ủy Bến Tre đã ban hành Chương trình số 10-CTr/TU ngày 29/01/2021 về quản lý, đảm bảo an ninh nguồn nước, nguồn cấp nước ngọt thích ứng với BĐKH giai đoạn 2020-2030. Cụ thể, đợt hạn mặn năm nay, tỉnh đã thường xuyên quan trắc dự báo xâm nhập mặn để chủ động vận hành các công trình ngăn mặn; đồng thời thông báo và hướng dẫn người dân thực hiện các biện pháp phòng chống hạn mặn, trữ ngọt. Đến thời điểm này, trên địa bàn tỉnh chưa ghi nhận thiệt hại về sản xuất do ảnh hưởng của xâm nhập mặn gây ra. Tuy nhiên, xâm nhập mặn ảnh hưởng đến nguồn lấy nước của các nhà máy nước, gây thiếu nước sinh hoạt và sản xuất ở một số địa phương.
* Tại Bến Tre, trên cơ sở Nghị quyết chung cho vùng, tỉnh cũng đã chủ động xây dựng quy hoạch cấp tỉnh để tích hợp vào quy hoạch chung nhằm ứng phó tốt hơn với tình trạng hạn mặn?
Trên cơ sở Nghị quyết chung cho vùng, các định hướng của Trung ương, Bến Tre đã tích hợp các giải pháp công trình và phi công trình vào Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1399/QĐ-TTg ngày 17 tháng 11 năm 2023 nhằm ứng phó tốt hơn với tình trạng xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh. Trong đó: tập trung phát triển hạ tầng giao thông ven biển, cảng biển, năng lượng tái tạo, năng lượng mới (hydro xanh); phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao; từng bước mở rộng không gian ra hướng Đông tạo hành lang kinh tế ven biển kết nối với vùng động lực kinh tế phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh được xem là các đột phá phát triển trong quy hoạch tỉnh giai đoạn mới.
* Thưa ông, việc ứng phó với hạn mặn trên tinh thần Nghị quyết 120, Bến Tre có gặp khó gì không thưa ông?
Thời gian qua, tỉnh đã được sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương, nhiều dự án, công trình thủy lợi và cấp nước quan trọng được đầu tư góp phần nâng cao năng lực tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp cũng như cấp nước sinh hoạt cho người dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn một số hạn chế như:
- Về năng lực thích ứng: Hệ thống công trình thủy lợi tỉnh chưa được khép kín, Dự án quản lý nước vẫn chưa hoàn thành; năng lực cảnh báo xâm nhập mặn tỉnh chưa hoàn chỉnh: Hệ thống quan trắc dự báo độ mặn và giám sát chất lượng nước tự động trên các nhánh sông chính tỉnh Bến Tre chưa vận hành chính thức, vẫn còn xảy ra ô nhiễm môi trường nước cục bộ trong các đê, đập ngăn dòng trữ ngọt ứng phó xâm nhập mặn.
- Về năng lực giảm phát thải khí nhà kính: các cơ sở sản xuất, xuất khẩu trên địa bàn tỉnh cần có thời gian chuẩn bị, điều chỉnh sản xuất để thích ứng kịp thời với các quy định về tiêu chí các-bon khi xuất khẩu hàng hóa ra thị trường thế giới; giảm phát thải trong lĩnh vực rác thải còn gặp nhiều khó khăn, do các bãi rác hiện tại đều là bãi rác hở, bằng hình thức chôn lấp.
* Về trước mắt cũng như lâu dài, Bến Tre giải quyết bài toán nước cho sinh hoạt và sản xuất như thế nào? Và những đề xuất của Bến Tre đối với Chính phủ liên quan đến vấn đề này như thế nào?
Về trước mắt, tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp, địa phương tăng cường công tác tuyên truyền hỗ trợ người dân tích trữ, lưu giữ nước ngọt bằng nhiều hình thức khác nhau như: lu, vại, mương, vườn,... để sử dụng trong các đợt cao điểm hạn mặn; khuyến khích người dân gia cố, đấp đập, đê bao cục bộ để ngăn mặn trữ nước ngọt. Khuyến khích người dân chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng phù hợp từng vùng sinh thái của tỉnh; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tưới tiết kiệm và các giải pháp canh tác hữu cơ, an toàn, tuần hoàn. Các nhà máy nước trên địa bàn tỉnh, nhất là khu vực nông thôn tiếp tục nâng cấp mở rộng mạng lưới cấp nước, nâng cao chất lượng nước cấp, xây dựng các phương án khả thi, hiệu quả bảo đảm cấp nước ngọt cho người dân trong mùa cao điểm hạn mặn. Nạo vét, khai thông thủy lợi nội đồng đảm bảo lưu thông nguồn nước cấp cho sản xuất.
Về lâu dài, tỉnh đang tập trung đầu tư, huy động nguồn lực đầu tư hệ thống hạ tầng cấp nước trên địa bàn tỉnh. Đầu tư hoàn thiện hệ thống thủy lợi dọc các sông chính; đầu tư, gia cố, vận hành hiệu quả các cống ngăn mặn, trữ ngọt, nhất là các cống Tân Phú, Bến Rớ; nạo vét, các tuyến kênh lưu vực Hồ chứa nước Kênh Lấp duy trì hiệu quả trữ nước phục vụ cho các nhà máy nước. Tiếp tục phối hợp hoàn thiện các cống lớn thuộc Dự án Quản lý nước Bến Tre (JICA3); khẩn trương đưa vào khai thác, sử dụng hiệu quả Hồ chứa nước ngọt Lạc Địa tại xã Phú Lễ, huyện Ba Tri để từng bước làm chủ được nguồn nước trên địa bàn tỉnh.
* Theo ông để tiếp tục thực hiện Nghị quyết 120 tại tỉnh bến Tre trong thời gian tới, tỉnh có những kiến nghị, đề xuất như thế nào?
Nghị quyết 120 thực sự là quyết sách lớn với quan điểm phát triển “thuận thiên" và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết tại tỉnh đồng thời nâng cao năng lực phòng chống thiên tai, thích ứng biến đổi khí hậu, tỉnh có một số kiến nghị cụ thể: Chính phủ tiếp tục chỉ đạo thực hiện quyết liệt Nghị quyết này theo hướng ưu tiên tăng đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cho ĐBSCL, đặc biệt là đầu tư hoàn thiện tuyến đường ven biển từ TP. Hồ Chí Minh đến Kiên Giang để kết nối nội vùng, với vùng Đông Nam bộ và TP. Hồ Chí Minh; Quan tâm chỉ đạo xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách đặc thù thúc đẩy phát triển vùng, liên kết vùng thực chất và bền vững; Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thủy lợi, hướng đến phục vụ đa mục tiêu, phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đảm bảo cấp đủ nước đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, sản xuất của người dân; Hỗ trợ nghiên cứu, đánh giá tính khả thi dự án cống điều tiết nước trên sông Hàm Luông nhằm điều tiết nguồn nước, hạn chế tình trạng xâm nhập mặn tại tỉnh Bến Tre và các tỉnh lân cận.
Oanh Trần